
Top những điều bạn nên biết về nhã nhạc cung đình Huế
Cố đô Huế là nơi của những kiến trúc mang dấu ấn lịch sử hàng trăm năm tuổi với các cung điện nguy nga, đền đài uy nghiêm cùng nền ẩm thực độc đáo thấm đượm tính tuý, hồn quê của vùng đất miền Trung. Cố đô Huế còn là nơi của những nét đẹp di sản văn hoá tinh thần mà những ai đặt chân đến đây đều muốn thưởng thức – Nhã nhạc cung đình Huế. Đây là một biểu tượng đặc trưng của vùng đất cố đô, trải qua hàng chục thế kỷ vẫn mang được dấu ấn đậm chất dân tộc Việt. Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại. Vậy bạn đã có những hiểu biết gì về Nhã nhạc cung đình Huế chưa? Cùng mình tìm hiểu những điều nên biết về nhã nhạc cung đình Huế nhé.
Tổng quan về Nhã nhạc cung đình Huế
Từ xa xưa, ở châu Á có bốn nước là Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam có chung một điểm tương đồng là sử dụng một loại nhạc cung đình riêng của nước đó. Tại Việt Nam, loại nhạc dùng trong các lễ tế Giao, tế Miếu, các dịp triều hội, trong sinh hoạt giải trí của vua và hoàng gia gọi là Nhã nhạc – một sản phẩm kết hợp giữa Lễ và Nhạc. Nhã nhạc cung đình thường bao gồm các thể loại ca hát, múa, kịch hát. Kể từ thời nhà Hồ thì Nhã nhạc là từ dùng để chỉ âm nhạc cung đình nói chung hay lễ nhạc cung đình nói riêng.

Sự hình thành – phát triển của Nhã nhạc cung đình Huế
Lịch sử hình thành và phát triển của Nhã nhạc Việt Nam được ghi lại khá rõ ràng và được chia thành các giai đoạn.Nhã nhạc mang lời lẽ sang trọng, uyển chuyển thể hiện chất cao sang quyền quý, là biểu trưng cho sự trường tồn, thịnh vượng của thế lực quân chủ cầm quyền. Theo ghi chép thì Nhã nhạc Việt Nam có từ thời Lý 1010-1225 và hoạt động quy củ dần về sau.
Vào thời nhà Lê 1427-1788, Nhã nhạc có kết cấu phức tạp, chặt chẽ với quy mô tổ chức khá chi tiết và rõ ràng. Nó được dành riêng cho giới quý tộc và bác học. Vào thời Lê, Nhã nhạc được chia ra thành các thể loại: Đại triều nhạc, Thường triều nhạc, Đại yến nhạc, Giao nhạc, Miếu nhạc, Cửu nhật nguyệt lai trùng nhạc… Tuy nhiên, Nhã nhạc thời này không được phát triển liên tục và bị suy thoái đến cuối triều Lê vì nhiều nguyên nhân.
Đến triều Nguyễn 1802-1945, hình thức âm nhạc Nhã nhạc cung đình Huế bắt đầu phát triển mạnh mẽ, được tổ chức một cách kỹ lưỡng và cụ thể hơn bao giờ hết. Từ thời vua Gia Long, Nhã nhạc được sử dụng để “di dưỡng tinh thần”, từ đây Nhã nhạc được gắn liền với cung đình Huế bởi triều đại nhà Nguyễn đóng đô ở Kinh thành Huế suốt 150 năm. Nhã nhạc cung đình Huế từ đây phát triển có hệ thống, bài bản với hàng trăm nhạc chương, và được triều đình và người dân tôn vinh thành Quốc nhạc, được sử dụng trong những ngày lễ trọng đại có ý nghĩa lớn lao.
Phát triển mạnh mẽ là vậy nhưng cho đến khi triều đại phong kiến nhà Nguyễn sụp đổ, Nhã nhạc cung đình Huế bị đe dọa nghiêm trọng bởi các thể loại nhạc du nhập từ Phương tây về nước. Tuy nhiên, Nhã nhạc cung đình Huế vẫn tồn tại nguyên vẹn qua các biến cố lịch sử, mang đúng chất tinh hoa văn hoá tinh thần của dân tộc cho đến ngày nay.
Cấu trúc nhạc chương của Nhã nhạc cung đình Huế
Cấu trúc nhạc chương của Nhã nhạc cung đình Huế do Bộ Lễ biên soạn sẽ khác nhau tùy theo tính chất của các buổi lễ khác nhau. Tế Giao gồm 10 nhạc chương mang chữ “Thành” với ý nghĩa là thành công. Tế Xã tắc gồm 7 nhạc chương mang chữ “Phong” tức cầu cho muôn dân được mùa. Tế Miếu gồm 9 nhạc chương mang chữ “Hoà” với ý nghĩa hoà hợp. Tế Lịch Đại Đế vương gồm 6 nhạc chương mang chữ “Văn” thể hiện trí tuệ sáng suốt. Lễ Đại triều thì sử dụng 5 bài chương mang chữ “Bình” với ý nghĩa hòa bình. Lễ Vạn thọ sử dụng 7 bài chương chứ chữ “Thọ” thể hiện sự trường tồn. Lễ Đại yến sử dụng 5 bài chương với chữ “Phúc” mang ý nghĩa phúc lành…
Tổ chức nhạc khí cho Nhã nhạc cung đình Huế
Tổ chức nhạc khí có 6 loại ban nhạc gồm: Nhã nhạc, Đại nhạc, Tiểu nhạc, Nhạc huyền, Quân nhạc, Ty chung và Ty khánh. Mỗi ban nhạc sẽ bao gồm các loại nhạc khí khác nhau và sẽ không dưới 30 chủng loại với hàng trăm nhạc khí như trống bản, cái phách, cái sáo, đàn nhị, đàn huyền tử, đàn ty bà, trùm thanh la bằng đồng… Nhã nhạc cung đình Huế được dùng trong các lễ tế đại triều với tần suất tổ chức 2 lần/tháng, trong thường triều sẽ tổ chức 4 lần/tháng.
Nhã nhạc cung đình Huế cùng kết hợp với múa cung đình
Nhã nhạc kết hợp với các điệu múa thời Nguyễn rất phong phú. Các bộ phận của Nhã nhạc như ban nhạc, nhạc khí, bài nhạc… sẽ được các vũ công điêu luyện nhất hội tụ trên khắp cả nước về cùng thể hiện nên cái chất của Nhã nhạc. Đặc biệt là trong các dịp lễ lớn, âm nhạc trở thành tiếng nói để vua giao cảm với đất trời, muôn dân trăm họ hướng về thần linh, tổ tiên.
Giữ gìn giá trị văn hoá phi vật thể Nhã nhạc cung đình Huế
Việc bảo tồn, gìn giữ Nhã nhạc cung đình Huế đã được tiến hành từ năm 1992, và nhà hát Nghệ thuật Cung đình Huế đã ra đời. Công tác bảo tồn Nhã nhạc dần đi vào ổn định vào theo quỹ đạo. Nhà hát Nghệ thuật Cung đình Huế đã giữ gìn được một số bản nhạc cung đình gồm 10 bản Ngự là Phẩm tuyết, Hồ quảng, Nguyên tiêu, Bình bán, Liên hoàn, Tây mai, Xung phong, Kim tiền, Long hổ, Tấu mã, hay các ban Long đăng, Tiểu khúc, Long ngâm và một số bài trong Đại nhạc được phục hồi. Bên cạnh việc bảo tồn và phục hồi, nhà hát cũng cho biểu diễn qua các hình thức khác nhau như festival Huế, Lễ hội Phật giáo, Lễ hội dân gian,… và thiết kế khu trưng bày triển lãm giới thiệu chi tiết Nhã nhạc thông qua các loại phục trang, nhạc cụ, mặt nạ, tư liệu.
Trên đây là những điều nên biết về Nhã nhạc cung đình Huế. Bạn hãy lưu lại và tìm hiểu kỹ hơn về loại hình nghệ thuật này và hãy thử đến Cố đô Huế một lần và trực tiếp trải nghiệm và cảm nhận Nhã nhạc cung đình Huế nhé.